Trúc đen là một loài của thực vật có hoa trong phân họ tre Poaceae, có nguồn gốc đến tỉnh Hồ Nam của Trung Quốc, và trồng rộng rãi ở những nơi khác.
Trúc đen
Trúc đen tên khoa học Phyllostachys Nigra là một cây tre đẹp và độc đáo. Trúc đen có nguồn gốc từ Đài Loan và Trung Quốc. Được biết đến vào năm 1827, là một loại cây trúc cứng nhất hiện nay.
Đặc điểm của cây trúc đen
Với thân cây trúc đen có màu đen huyền và lá xanh đầy lông, đây có lẽ là cây trúc được tìm kiếm nhiều nhất. Trong điều kiện lý tưởng, Trúc đen sẽ cao tới 10 m với đường kính trên 5 cm, nhưng 7 m là chiều cao trung bình của cây trúc đen ở hầu hết các vùng khí hậu. Đã có ít nhất một trường hợp trong đó cây trúc đen được đo ở độ cao hơn 13m, nhưng điều này dường như rất hiếm.
Các đốt trúc mới lớn xuất hiện màu xanh lá cây mỗi mùa xuân và dần dần chuyển sang màu đen trong một đến ba năm. Luôn luôn có một sự tương phản của các luồng sáng và tối được cân bằng bởi những chiếc lá mảnh, màu xanh đậm. Cây trúc đen này ban đầu chậm lan rộng, qua khi trưởng thành, nó có thể khá mạnh mẽ. Nếu được trồng trong đất nghèo, nó có xu hướng phát triển thành một cụm chặt chẽ, tạo ra hầu hết các rãnh mỏng. Cây trúc đen nên được cung cấp một lớp đất mặt phong phú, bao gồm phân hữu cơ hoặc phân già và mùn, và không gian để phát triển không bị cản trở. Nó làm cho một mẫu vật nổi bật, nếu được chăm sóc tốt, và có thể là tâm điểm của bất kỳ khu vườn nào. Nó cũng có thể được định hình để tạo thành một hàng rào dày đặc cho sự riêng tư.
Cây trúc đen là một trong những giống cây tre được đánh giá cao để làm đồ gỗ trang trí. Cả hai sẽ giữ lại màu tối hoặc lốm đốm sau khi sấy khô.
Môi trường sống của trúc đen
Loài cây này chủ yếu sinh sản thực vật thông qua những cái mút từ thân cây leo dài (thân rễ).
Nó lây lan sang hai bên từ trồng vườn cố tình vào khu vực bụi rậm gần đó và nó leo thân ngầm ( thân rễ ) cũng có thể được phân tán trong đất.
Trúc đen mọc ở các vùng núi cao trên 1.300 m, gần khe suối, nơi có độ ẩm cao.
- Việt Nam: Sa Pa (Lào Cai), huyện Mèo Vạc, Hoàng Su Phì, Đồng Văn (Hà Giang), miền Nam Việt Nam
- Thế giới: phía nam sông Hoàng Hà (Trung Quốc)
Khi nào nên trồng cây trúc đen
Trúc đen là tên gọi chung của một số loài tre có thân màu đen khác biệt, trái ngược với những cây xanh thông thường. Mặc dù trúc đen có thể được trồng bất cứ lúc nào trong năm ở vùng khí hậu Địa Trung Hải, nhưng việc trồng vào đầu mùa xuân sẽ giúp tăng trưởng nhanh nhất.
Trồng trúc đen trong đất màu mỡ, thoát nước tốt trong ánh nắng mặt trời hoặc một phần bóng râm. Một nơi cung cấp một số bảo vệ khỏi ánh nắng mặt trời buổi chiều nóng là lý tưởng. Không gian cây cách nhau ít nhất 1.5m nếu bạn đang trồng cho một hàng rào. Sẽ chỉ mất khoảng năm hoặc sáu năm để chúng đạt được chiều cao đầy đủ.
Cách trồng trúc đen
Đào một cái lỗ cho cây trúc đen rộng gấp hai hoặc ba lần, sâu ít nhất 76 cm, để giữ cho nó không bị lan rộng . Trúc đen thích đất giàu dinh dưỡng.
Tưới nước kỹ khi trồng, và hai hoặc ba lần một tuần trong thời tiết khô, đặc biệt nếu nó nằm trong một thùng chứa. Giữ cho đất ẩm nhưng không sũng nước vì cây trúc đen không thích ứng với đất sũng nước, nhưng chúng cần nhiều nước.
Thói quen tăng trưởng
Thân cây trúc đen mọc lên màu xanh lá cây và có thể mất hai đến ba năm để chúng chuyển sang màu đen. Trúc đen (Phyllostachys nigra) là tre đen mà bạn có thể tìm thấy nhiều nhất ở trung tâm vườn. Nó mọc cao từ 6 đến 10 m.
Nhu cầu ánh sáng chung
Hầu hết các loại tre phát triển tốt nhất với ít nhất năm giờ mặt trời mỗi ngày, nhưng ngay cả những giống cây ưa nắng nhất cũng có thể tồn tại ở những khu vực có bóng râm. Quá nhiều ánh nắng mặt trời, đặc biệt là ở những khu vực khô cằn, gió, có thể gây hại nhiều hơn là tốt cho cây trúc đen. Phơi nhiễm kết hợp với không khí khô có thể làm căng tre, làm tăng nguy cơ bị bỏng mùa đông, một điều kiện khiến ngọn cây chết xuống đất, dẫn đến cây bị còi cọc. Gió và một phần bóng râm, đặc biệt là vào buổi chiều, có thể giúp giảm nguy cơ này ở vùng khí hậu nóng, khô.
Các loài trúc đen khác
Một trong những loài tre đen lớn nhất:
- Trúc đen Timor (Bambusa lako), có thể cao tới 21m.
- Cây tre đen khổng lồ (Gigantochlea atroviolacea), cao 9 đến 18 m. Cả hai loài đều có nguồn gốc từ Indonesia và phát triển trong khu USDA 9b đến 11.
- Loại nhỏ nhất là tre đen lùn (Chimonobambusa marmorea), cao từ 0.6 đến 1.8 m với đường kính 1.5 cm. Tre đen lùn mọc ở vùng USDA 8b và 9a.
Giống cây tương tự
Trúc đen rất giống với tre gỗ khổng lồ (Phyllostachys bambusoides), tre vàng (Phyllostachys aurea), và tương đối giống với cây sậy khổng lồ (Arundo donax). Những loài này có thể được phân biệt bởi những khác biệt sau:
- Trúc đen có thân trưởng thành màu đen hoặc đỏ tía thường dày 1 – 4 cm. Những thân cây này có một rãnh đặc biệt chạy dọc từ phía trên nơi các nhánh bên được sản xuất. Lá tương đối nhỏ và sắc (dài đến 12 cm) . Hoa rất hiếm khi được nhìn thấy.
- Tre gỗ khổng lồ (P. bambusoides) có thân trưởng thành màu xanh lục hoặc vàng nhạt thường dày 6 – 20 cm. Những thân cây này có một rãnh đặc biệt chạy dọc từ phía trên nơi các nhánh bên được sản xuất. Lá tương đối nhỏ giống một cái dao nhỏ (dài đến 10 cm). Hoa rất hiếm khi được nhìn thấy.
- Tre vàng (P. aurea) có thân trưởng thành màu vàng lục hoặc vàng thường dày 2 – 3 cm. Những thân cây này có một rãnh đặc biệt chạy dọc từ phía trên nơi các nhánh bên. Lá tương đối nhỏ (dài đến 15 cm)
- Cây sậy (A. donax) có thân màu xanh lục dày tới 4 cm. Những thân cây này được làm tròn và không có bất kỳ rãnh dọc. Lá của nó rất lớn (dài đến 80 cm) không bị hạn chế ở gốc phiến lá . Hoa thường được sinh ra trong các cuống mở rất lớn, có lông, màu trắng ở ngọn của thân cây.